Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Truyền Thống Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Hoa Kỳ
Lt. Gen. Mark A. Milley, commander of III Corps and Fort Hood shakes
hands with Col. Viet Luong, rear detachment commander of the 1st Cavalry
Division as his wife Kimberly looks on during a ceremony as the 1st
Cavalry Division prepares for their deployment to Afghanistan,
Wednesday, June 18, 2014 at Cooper Field at Fort Hood.
Trực thăng vận SĐ1 Kỵ Binh trong Chiến tranh Việt Nam
Current structure
On 15 July 2005, the 1st Cavalry Division transitioned to the Unit of Action
modified table of organization and equipment (MTOE). No longer are
battalion-sized elements made up purely of armor and/or infantry
battalions. Brigades are now composed of combined arms battalions (CAB),
meaning every maneuver battalion combines infantry and armor, excluding
the brigade reconnaissance squadrons.
- 1st Cavalry Division consists of the following elements
- Division Headquarters and Headquarters Battalion "Maverick"[13]
- Headquarters Support Company
- Operations Company
- Intelligence & Sustainment Company
- Signal Company
- Horse Cavalry Detachment
- 1st Cavalry Division Band
- 1st Brigade Combat Team, "Ironhorse"[1]
- Headquarters & Headquarters Troop, 1st BCT
- 1st Squadron, 7th Cavalry (RSTA) "Garryowen!"
- 2d Battalion, 5th Cavalry "Lancers"
- 2d Battalion, 8th Cavalry "Stallions"
- 2d Battalion, 12th Cavalry "Thunder Horse"
- 1st Battalion, 82d Field Artillery "Dragons"
- 91st Brigade Engineer Battalion
- 115th Brigade Support Battalion "Muleskinners"
- 2nd Brigade Combat Team "Black Jack"
- Headquarters & Headquarters Troop, 2d BCT
- 4th Squadron, 9th Cavalry (RSTA) "Darkhorse"
- 1st Battalion, 5th Cavalry "Black Knights"
- 1st Battalion, 8th Cavalry "Mustangs"
- 1st Battalion, 9th Cavalry "Head Hunters"
- 3d Battalion, 82d Field Artillery "Red Dragons"
- 8th Brigade Engineer Battalion "Trojan Horse"
- 15th Brigade Support Battalion "Gambler"
- 3rd Brigade Combat Team "Greywolf"[1]
- Headquarters & Headquarters Troop, 3d BCT
- 6th Squadron, 9th Cavalry (RSTA) "Saber"
- 2d Battalion, 7th Cavalry "Ghost"
- 3d Battalion, 8th Cavalry "Warhorse"
- 1st Battalion, 12th Cavalry "Chargers"
- 2d Battalion, 82d Field Artillery "Steel Dragons"
- 3d Brigade Engineer Battalion
- 215th Brigade Support Battalion "Blacksmiths"
- Combat Aviation Brigade "Warrior"
- Headquarters and Headquarters Company
- 1st Battalion, 227th Aviation Regiment "First Attack"
- 2nd Battalion, 227th Aviation Regiment "Lobos"
- 3d Battalion, 227th Aviation Regiment "Spearhead"
- 4th Battalion, 227th Aviation Regiment "Guns Attack"
- 615th Aviation Support Battalion "Cold Steel"
The division is supported by the 4th Sustainment Brigade at Fort Hood.
The 4th Brigade Combat Team "Long Knife" inactivated in October 2013:
the Special Troops Battalion, 4th BCT; the 5th Battalion, 82nd Artillery;
and 27th Brigade Support Battalion were inactivated with some of the
companies of the latter two used to augment artillery and support
battalions in the remaining three BCTs. The 1st Squadron, 9th Cavalry joined the 2d Brigade Combat Team, the 2d Battalion, 7th Cavalry joined the 3d Brigade Combat Team and the 2d Battalion, 12th Cavalry joined the 1st Brigade Combat Team.
Chiến dịch chính đầu tiên của sư đoàn là ở Pleiku. Trong chiến dịch đó, sư đoàn đã tiến hành liên tục 35 ngày hành quân đổ bộ bằng trực thăng. Trận đánh mở màng là ở trận Thung lũng Ia Drang, được diễn tả trong cuốn sách We Were Soldiers Once...And Young cũng là nôi dung cuốn phim của Mel Gibson We Were Soldiers. Đơn vị cũng nhận được tưởng thưởng Presidential Unit Citation đầu tiên được trao cho một sư đoàn trong Chiến tranh Việt Nam.
Phần lớn thời gian năm 1967 của sư đoàn là Chiến dịch Pershing. Đây là chiến dịch tìm diệt trên một số vùng rộng lớn nằm trong Vùng 2 chiến thuật với kết quả là tiêu diệt 5.400 và bắt sống 2.000 quân địch. Sư đoàn tái phối trí đến trại Evans, phía bắc Huế nằm trong Vùng chiến thuật 1 thuộc quân khu 1 trong suốt thời gian Tết Mậu Thân 1968, tham gia tái chiếm Quảng Trị và Huế. Sau trận đánh dữ dội tại Huế, sư đoàn nhanh chóng đến cứu viện các đơn vị Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ bị bao vây tại căn cứ Khe Sanh vào tháng 3 năm 1968. Sư đoàn tham gia các chiến dịch giải tỏa chính tại thung lũng A Shau từ giữa tháng tư cho đến giữa tháng 5 năm 1968. Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1968 sư đoàn tham gia vào các sứ mệnh phục vụ y tế và bình định tại các địa phương trong Quân khu 1.
Vào tháng 8 năm 1968, sư đoàn dời về phía nam Vùng chiến thuật 3 thuộc Quân khu 3, phía tây bắc Sài Gòn, nằm cạnh vùng biên giới với Campuchia. Tháng 5 năm 1970, sư đoàn là một trong số các đơn vị của Hoa Kỳ tham gia vào cuộc xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia, và rút khỏi Cambodia vào ngày 29 tháng 6. Về sau đó sư đoàn chỉ giữ nhiệm vụ phòng thủ trong lúc quân đội Hoa Kỳ tiếp tục rút quân khỏi Việt Nam.
Sư đoàn 1 Không kỵ[1] | |
---|---|
Phù hiệu sư đoàn |
|
Hoạt động | 13 tháng 9, 1921 - nay |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Quân chủng | Quân thường trực |
Phân loại | Kỵ binh |
Quy mô | 16.700 quân |
Bộ phận của | Quân đoàn III Hoa Kỳ |
Bộ chỉ huy | Fort Hood, Texas |
Đặt tên theo | St George |
Khẩu hiệu | Live the Legend |
Màu sắc | Đen & vàng |
Hành khúc | |
Linh vật | Thần mã |
Tham chiến | Thế chiến thứ hai Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến dịch Bão táp Sa mạc Chiến dịch Tự do Iraq |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy hiện thời |
Thiếu tướng Daniel P. Bolger |
Chỉ huy nổi tiếng |
Adna R. Chaffee, Jr. Walter C. Short Robert M. Shoemaker Wesley K. Clark George William Casey, Sr. Eric K. Shinseki |
Lịch sử thành lập
Sư đoàn được thành lập ngày 4 tháng 4 năm 1921, với 7.463 sĩ quan và binh lính, tổ chức ban đầu như sau:- Chỉ huy sở (34 người)
- 2 Lữ đoàn Kỵ binh (2,803 người mỗi Lữ đoàn)
- Tiểu đoàn pháo dã chiến (790 người)
- Tiểu đoàn Kỹ thuật (357 người)
- Ban Vận tải quân nhu (276 người)
- Đại đội đặc nhiệm (337 người)
- Đại đội Quân y (63 người)
Chiến tranh Việt Nam
Trong lúc tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam, sư đoàn không còn là một đơn vị bộ binh thông thường mà trở thành sư đoàn cơ động trên không, thường được biết đến là Sư đoàn Không kị số 1 (1st Air Cavalry Division), sử dụng trực thăng làm phương tiện vận chuyển quân. Danh xưng đơn vị và màu của sư đoàn được chuyển cho Sư đoàn Không kị số 11 lúc đó đóng quân ở Căn cứ Benning, tiểu bang Georgia vào tháng 7 năm 1965, và rồi bắt đầu di chuyển đến Trại Radcliffe, An Khê, Việt Nam trong tháng đó. Cùng với Sư đoàn Dù số 101, sư đoàn đã sử dụng hoàn hảo chiến thuật và học thuyết mới trong việc hành quân đổ quân bằng trực thăng trong năm năm sau đó tại Việt Nam.Chiến dịch chính đầu tiên của sư đoàn là ở Pleiku. Trong chiến dịch đó, sư đoàn đã tiến hành liên tục 35 ngày hành quân đổ bộ bằng trực thăng. Trận đánh mở màng là ở trận Thung lũng Ia Drang, được diễn tả trong cuốn sách We Were Soldiers Once...And Young cũng là nôi dung cuốn phim của Mel Gibson We Were Soldiers. Đơn vị cũng nhận được tưởng thưởng Presidential Unit Citation đầu tiên được trao cho một sư đoàn trong Chiến tranh Việt Nam.
Phần lớn thời gian năm 1967 của sư đoàn là Chiến dịch Pershing. Đây là chiến dịch tìm diệt trên một số vùng rộng lớn nằm trong Vùng 2 chiến thuật với kết quả là tiêu diệt 5.400 và bắt sống 2.000 quân địch. Sư đoàn tái phối trí đến trại Evans, phía bắc Huế nằm trong Vùng chiến thuật 1 thuộc quân khu 1 trong suốt thời gian Tết Mậu Thân 1968, tham gia tái chiếm Quảng Trị và Huế. Sau trận đánh dữ dội tại Huế, sư đoàn nhanh chóng đến cứu viện các đơn vị Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ bị bao vây tại căn cứ Khe Sanh vào tháng 3 năm 1968. Sư đoàn tham gia các chiến dịch giải tỏa chính tại thung lũng A Shau từ giữa tháng tư cho đến giữa tháng 5 năm 1968. Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1968 sư đoàn tham gia vào các sứ mệnh phục vụ y tế và bình định tại các địa phương trong Quân khu 1.
Vào tháng 8 năm 1968, sư đoàn dời về phía nam Vùng chiến thuật 3 thuộc Quân khu 3, phía tây bắc Sài Gòn, nằm cạnh vùng biên giới với Campuchia. Tháng 5 năm 1970, sư đoàn là một trong số các đơn vị của Hoa Kỳ tham gia vào cuộc xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia, và rút khỏi Cambodia vào ngày 29 tháng 6. Về sau đó sư đoàn chỉ giữ nhiệm vụ phòng thủ trong lúc quân đội Hoa Kỳ tiếp tục rút quân khỏi Việt Nam.
Các đời chỉ huy[2]
|
|
Unit decorations
Ribbon | Award | Year | Notes |
---|---|---|---|
Presidential Unit Citation (Army) | Pleiku Province | ||
Valorous Unit Award (Army) | Fish Hook | ||
Meritorious Unit Commendation (Army) | Southwest Asia | ||
Philippine Republic Presidential Unit Citation | 1944–1945 | ||
Republic of Korea Presidential Unit Citation (Army) | Waegwan–Taegu | ||
Gold Cross of Valour (Greece) | 1955 | Korea | |
Republic of Vietnam Cross of Gallantry, with Palm | 1965–1969 | For service in Vietnam | |
Republic of Vietnam Cross of Gallantry, with Palm | 1969–1970 | For service in Vietnam | |
Republic of Vietnam Cross of Gallantry, with Palm | 1970–1971 | For service in Vietnam | |
Republic of Vietnam Civil Action Unit Citation | 1969–1970 | For service in Vietnam |